Underline menu menu close

HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC KINH TẾ TOÀN DIỆN ASEAN - NHẬT BẢN (AJCEP)

Tháng 4/2005, ASEAN và Nhật Bản bắt đầu đàm phán, và kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện (AJCEP) được ký kết vào tháng 4/2008, là một Hiệp định kinh tế toàn diện cả về thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế, có hiệu lực từ ngày 1/12/2008.

Ngày 1/8/2020, Nghị định thư lần thứ nhất của hiệp định AJCEP có hiệu lực giữa Nhật Bản và 5 nước thành viên ASEAN. Nghị định thư bổ sung các điều khoản liên quan đến Thương mại Dịch vụ và tự do hóa và tạo thuận lợi cho Đầu tư. Hiệp định AJCEP là Hiệp định Đối tác Kinh tế đa phương đầu tiên của Nhật Bản (“EPA”)

Đây là thoả thuận toàn diện trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và hợp tác kinh tế. Hiệp định AJCEP cũng sẽ tăng cường các quan hệ kinh tế giữa ASEAN và Nhật Bản và tạo ra một thị trường lớn hơn, hiệu quả hơn với nhiều cơ hội hơn trong khu vực.

Mục tiêu của hiệp định:

Tăng cường quan hệ đối tác kinh tế giữa Nhật Bản và các nước thành viên ASEAN, Hiệp định AJCEP tự do hóa và tạo thuận lợi cho thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ giữa Nhật Bản và các nước thành viên ASEAN, thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực kinh tế.

Các yếu tố chính trong hiệp định AJCEP

- Thương mại hàng hóa: Xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế quan (áp dụng một hệ thống ưu đãi chung trong đó việc xóa bỏ và cắt giảm thuế quan (ưu đãi) giữa Nhật Bản và các Quốc gia Thành viên ASEAN được áp dụng bình đẳng cho mỗi quốc gia ký kết), các biện pháp bảo vệ, thủ tục hải quan,v.v.

- Quy tắc xuất xứ: Chứng nhận xuất xứ hang hóa (thông qua quy tắc xuất xứ chung được áp dụng bình đẳng giữa các quốc gia ký kết và cũng quy định tổng thể quy tắc xuất xứ ở Nhật Bản và khu vực ASEAN (cho phép các bộ phận và hàng bán thành phẩm, v.v., nhà sản xuất và các quốc gia ký kết khác được coi là sản xuất trong nước), cấp giấy chứng nhận xuất xứ, v.v.

- Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật (SPS): Các quyền và nghĩa vụ liên quan đến các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật dựa trên thỏa thuận áp dụng các biện pháp SPS được ký kết giữa các nước ký kết được tái khẳng định và một tiểu ban sẽ được thành lập để trao đổi thông tin, tạo điều kiện cho hợp tác, v.v.

- Thương mại dịch vụ: Đối xử quốc gia, Tiếp cận thị trường và Minh bạch, v.v.

- Đầu tư: Đối xử công bằng và bảo vệ đầy đủ, nghiêm cấm việc sung công mà không có bồi thường thích đáng, thủ tục giải quyết tranh chấp, v.v.

- Hợp tác kinh tế: Thỏa thuận rà soát và hành động về hợp tác trong 13 lĩnh vực, cụ thể là các thủ tục liên quan đến thương mại, môi trường kinh doanh, sở hữu trí tuệ, năng lượng, công nghệ thông tin và truyền thông, phát triển nguồn nhân lực, doanh nghiệp nhỏ, du lịch và dịch vụ khách hàng, vận tải và hậu cần, nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp, môi trường, chính sách cạnh tranh và các lĩnh vực khác mà các quốc gia ký kết đã đạt được thỏa thuận chung.

- Giải quyết tranh chấp: Thủ tục giải quyết các tranh chấp nảy sinh từ việc giải thích và áp dụng EPA, v.v.

Về lộ trình cắt giảm thuế quan cụ thể, Hiệp định quy định:

Biểu cam kết của Việt Nam trong AJCEP bao gồm 9.390 dòng thuế (dựa trên AHTN 2007), trong đó đưa vào lộ trình cắt giảm đối với 8.771 dòng. Số dòng còn lại là các dòng thuế CKD ô tô (57 dòng) và các dòng thuế không cam kết cắt giảm (562 dòng), cụ thể:

– Danh mục xoá bỏ thuế quan: Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 62,2% số dòng thuế trong vòng 10 năm, trong đó xoá bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực đối với 26,3% dòng thuế và xoá bỏ thuế quan sau 10 năm thực hiện Hiệp định (năm 2018) đối với 33,8% dòng thuế. Vào năm 2023 và 2024 (sau 15 năm và 16 năm thực hiện Hiệp định) cam kết xoá bỏ 25,7% và 0,7% số dòng thuế tương ứng.

Như vậy, vào năm cuối lộ trình (năm 2025) số dòng thuế được xoá bỏ thuế quan chiếm 88,6% số dòng thuế trong toàn Biểu cam kết.

– Danh mục nhạy cảm thường (SL) chiếm 0,6% số dòng thuế, được duy trì ở mức thuế suất cơ sở và xuống 5% vào năm 2025.

– Danh mục nhạy cảm cao (HSL) chiếm 0,8% số dòng thuế, được duy trì mức thuế suất cao (giảm xuống 50% vào năm 2023).

– Danh mục không xoá bỏ thuế quan, thuế suất duy trì ở mức thuế suất cơ sở trong cả lộ trình (C) chiếm 3,3% số dòng thuế.

– Danh mục loại trừ chiếm 6,0% số dòng thuế.

Lộ trình giảm thuế của Việt Nam trong Hiệp định AJCEP bắt đầu từ năm 2008 và kết thúc vào năm 2025. Các mặt hàng được cắt giảm xuống 0% vào các thời điểm 2018, 2023 và 2024.Các mặt hàng được xoá bỏ thuế quan chủ yếu là các mặt hàng công nghiệp. Số dòng thuế được xoá bỏ thuế quan tập trung vào các ngành máy móc thiết bị điện, máy móc cơ khí, hoá chất, kim loại, diệt may và sản phẩm nông nghiệp.

Cam kết cắt giảm thuế của Nhật Bản cho Việt Nam

Tính tới thời điểm ngày 1/4/2015, Nhật Bản đã xóa bỏ thuế quan đối với 923 dòng các sản phẩm nông nghiệp từ Việt Nam. Đến năm 2019, sẽ có thêm 338 dòng thuế nông nghiệp khác sẽ được xóa bỏ thuế. Đối với các mặt hàng công nghiệp của Việt Nam, phần lớn được hưởng thuế suất 0% ngay khi Hiệp dịnh có hiệu lực như linh kiện điện tử, máy móc, thiết bị, điện thoại, máy vi tính, đồ điện gia dụng, sản phẩm nhựa, giấy...

Đến cuối lộ trình vào năm 2026, Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế quan đối với 96,45% tổng số các dòng thuế đối với các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam, tập trung chủ yếu ở các nhóm nông sản, thủy sản, hàng dệt may, giầy dép, đồ gỗ, linh kiện điện tử...