Tổng số bài đăng 287.
Theo báo cáo Tình hình sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại tháng 10 và 10 tháng năm 2024, xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam tiếp tục đạt kết quả tích cực, duy trì tăng trưởng ở mức cao th Đặc biệt, khu vực kinh tế trong nước đã có bước tiến vượt bậc, với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt qua khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong tháng Mười, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 69,19 tỷ USD, tăng 5,1% so với tháng trước và tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười tháng năm 2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 647,87 tỷ USD, tăng 15,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 14,9%; nhập khẩu tăng 16,8%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 23,31 tỷ USD.
Số liệu xuất, nhập khẩu hàng hóa 10 tháng năm 2024
(Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)
Số liệu xuất khẩu 10 tháng năm 2024
Tính chung 10 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 335,59 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng trưởng khá cao so với một số nền kinh tế hàng đầu trong khu vực châu Á như: Trung Quốc tăng 4,3%; Hàn Quốc tăng 9,6%; Thái Lan tăng 3,9% (trong 9 tháng đầu năm 2024)... khu vực kinh tế trong nước đạt 93,97 tỷ USD, tăng 20,7%, chiếm 28,0% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 241,62 tỷ USD, tăng 12,8%, chiếm 72,0%. Như vậy, tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước cao hơn nhiều so với tăng trưởng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, trong 10 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chính đều đạt mức tăng trưởng tích cực so với cùng kỳ năm ngoái do sự phục hồi ở phía cầu và mức nền tương đối thấp của cùng kỳ năm 2023, trong đó:
Kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản sơ bộ 10 tháng đạt 32,2 tỷ USD, tăng 21,4% so với cùng kỳ năm 2023, chiếm 9,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong nhóm này, do hưởng lợi bởi giá tăng cao nên kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng tăng cao ở mức hai chữ số so với cùng kỳ năm trước như hạt tiêu, cà phê, gạo, chè, rau quả, nhân điều, cao su,...
Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo cũng phục hồi mạnh trong 10 tháng năm 2024, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước, sơ bộ đạt 284,4 tỷ USD, chiếm 84,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng chủ lựccũng đạt mức tăng trưởng cao ở mức hai con số như: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; hàng dệt may; giày dép; gỗ và sản phẩm từ gỗ,...
Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 98,4 tỷ USD, chiếm 29,3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tăng 24,2% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 15,8%); tiếp đến là thị trường Trung Quốc ước đạt 50,8 tỷ USD, tăng nhẹ 2,1% so với cùng kỳ năm trước; thị trường EU ước đạt 42,3 tỷ USD, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 8,9%); Hàn Quốc ước đạt 21 tỷ USD, tăng 6,9% (cùng kỳ năm 2023 giảm 3,6%); Nhật Bản ước đạt 20,1 tỷ USD, tăng 4,6% (cùng kỳ năm 2023 giảm 3%).
Số liệu nhập khẩu 10 tháng đầu năm 2024
Tính chung 10 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sơ bộ đạt 312,28 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 113,58 tỷ USD, tăng 18,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 198,7 tỷ USD, tăng 15,8%.
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu, cùng với sự phục hồi của sản xuất và xuất khẩu trong 10 tháng năm 2024 nên cơ cấu hàng hóa nhập khẩu cũng có sự chuyển biến khi chiếm 89% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu là nhóm hàng cần nhập khẩu (trong đó bao gồm máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng và nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước), với kim ngạch sơ bộ đạt 312,28 tỷ USD, tăng tới 16,8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện sơ bộ đạt 88,25 tỷ USD, tăng tới 23,7% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước chỉ tăng 0,8%); tiếp đến là kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt tỷ 39,7 tỷ USD, tăng 17% (cùng kỳ năm trước giảm 10,5%). Tương tự, kim ngạch nhập khẩu hầu hết các mặt hàng khác cũng ghi nhận mức tăng khá cao như: thép các loại tăng 23,2%; cao su tăng 30,1%; nguyên phụ liệu dệt may, da giầy tăng 19,3%; vải các loại tăng 14,7%.
Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu trong 10 tháng sơ bộ đạt gần 17 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ giảm 18%). Trong đó, tăng cao nhất là kim ngạch nhập khẩu hàng điện gia dụng và linh kiện, tăng 19,9%, sơ bộ đạt 1,86 tỷ USD; Linh kiện phụ tùng ô tô dưới 9 chỗ tăng 17,5%; Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh tăng 16,5% và rau quả tăng 15,7%.
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa, Trung Quốc là thị trường mà Việt Nam nhập khẩu lượng hàng hóa lớn nhất; tiếp theo là Hàn Quốc; khu vực thị trường ASEAN; Nhật Bản; EU; Hoa Kỳ.