Tổng số bài đăng 240.
Dòng vốn FDI vào Đông Nam Á đã tăng 9 lần trong vòng hai thập kỷ qua, với hơn một nửa trong số này đến Singapore, nơi có xu hướng đóng vai trò là trung tâm khu vực cho nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên, các dự án đầu tư “xanh” mới đã có sự sụt giảm nghiêm trọng kể từ khi đại dịch Covid-19 bắt đầu, mà vẫn chưa có dấu hiệu cải thiện. Trong khu vực, Việt Nam và Indonesia đã thu hút nguồn vốn FDI vào lĩnh vực xanh lớn nhất trong thập kỷ qua (232-242 tỷ USD), tiếp theo là Malaysia và Singapore (153-164 tỷ USD).
Các chính phủ ở Đông Nam Á dành nhiều nguồn lực để thu hút FDI với hy vọng tạo ra công ăn việc làm. Các dự án FDI xanh tạo ra trung bình ba việc làm trực tiếp trên một triệu USD đầu tư vào khu vực (tương tự mức trung bình trên toàn thế giới), nhưng cường độ tạo việc làm khác nhau đáng kể giữa các quốc gia theo trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế. Các quốc gia có thu nhập thấp hơn, chẳng hạn như Myanmar và Lào, cũng như các quốc gia có nguồn nhiên liệu hóa thạch dồi dào, như Brunei Darussalam, có xu hướng thu hút đáng kể FDI vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và sản xuất năng lượng, vốn tạo ra tương đối ít trực tiếp việc làm.
Các nền kinh tế mới nổi với năng lực công nghiệp đa dạng và vững chắc như Việt Nam và Thái Lan, tạo ra nhiều việc làm nhất trên một đô la đầu tư. Các quốc gia có lực lượng lao động có tay nghề cao, các ngành công nghiệp tiên tiến và các khu vực tài chính tương đối lớn hơn, chẳng hạn như Malaysia và Singapore, thu hút FDI vào các sản phẩm công nghệ cao và dịch vụ thâm dụng tri thức, đòi hỏi ít lao động hơn. Cường độ vốn cao của FDI sản xuất ở Indonesia được thúc đẩy bởi các ngành công nghiệp kim loại và hóa chất, trong khi cường độ lao động cao của FDI ở Philippines chủ yếu được thúc đẩy bởi các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh.
Ngoài vốn và việc làm, FDI đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển bền vững ở Đông Nam Á. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài giới thiệu sản phẩm và dịch vụ mới hơn đáng kể so với các đối tác trong nước ở hầu hết các quốc gia trong ASEAN, và năng lực đổi mới lớn hơn này cho thấy rằng có tiềm năng để tri thức và công nghệ truyền sang các doanh nghiệp trong nước.
Các công ty nước ngoài cũng có nhiều khả năng cung cấp các cơ hội đào tạo cho nhân viên của họ hơn, và khoảng cách giữa các công ty nước ngoài và trong nước ở nhiều nước ASEAN lớn hơn đáng kể so với các quốc gia trung bình thuộc OECD hoặc không thuộc OECD, cho thấy rằng các công ty nước ngoài đóng góp không đồng đều vào phát triển kỹ năng làm việc trong khu vực. Bằng cách sử dụng nhiều phụ nữ hơn trong lực lượng lao động của họ ở hầu hết các nước ASEAN, các doanh nghiệp nước ngoài cũng giúp cải thiện bình đẳng giới tại nơi làm việc.
Tuy nhiên, một số nền kinh tế đã được hưởng lợi nhiều hơn những nền kinh tế khác, và lợi ích của FDI không được cảm nhận đồng đều giữa các bộ phận khác nhau của xã hội. Trong khi FDI tạo ra việc làm và góp phần nâng cao kỹ năng và nâng cao mức sống, nó cũng có thể tạo ra rủi ro về các hoạt động kinh doanh thiếu trách nhiệm và không bền vững, đồng thời làm trầm trọng thêm bất bình đẳng thu nhập, có khả năng bỏ lại các bộ phận dân cư dễ bị tổn thương.
Đóng góp của FDI vào tăng trưởng xanh và khử cacbon không rõ ràng. Ví dụ, ở Indonesia và Thái Lan, FDI hoạt động kém hơn so với đầu tư trong nước về lượng phát thải CO2 trên một đơn vị sản lượng, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp khai thác, kim loại và năng lượng, trong khi ở Việt Nam và Philippines, lượng khí thải carbon của FDI thấp hơn so với đầu tư trong nước, đặc biệt là trong các ngành năng lượng và sản xuất. Sự chuyển dịch của FDI khỏi nhiên liệu hóa thạch và sang năng lượng tái tạo ở Đông Nam Á cũng tụt hậu so với các khu vực khác và thay đổi đáng kể giữa các khu vực.
Tại Lào và Campuchia, năng lượng tái tạo đã thu hút hơn một nửa các khoản đầu tư nước ngoài mới vào lĩnh vực năng lượng trong thập kỷ qua; tuy nhiên nhiên liệu hóa thạch vẫn chiếm hơn 88% vốn FDI vào lĩnh vực năng lượng tại 6 nước ASEAN.
Như trong trường hợp của các cuộc khủng hoảng lớn khác, đại dịch Covid-19 đã tạo động lực cho các chính phủ ASEAN xem xét lại các nguyên tắc cơ bản trong chính sách kinh tế của họ và định hướng lại các ưu tiên theo hướng có khả năng phục hồi và bền vững hơn. Thúc đẩy đầu tư bền vững là một phần không thể thiếu của Khuôn khổ Phục hồi Toàn diện ASEAN (ACRF) và việc thực hiện nó, xác định các chiến lược rộng rãi để ứng phó với khủng hoảng một cách đồng bộ và lâu dài.
Thách thức đối với các chính phủ không chỉ là thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào thời điểm dòng vốn FDI toàn cầu đang giảm dần mà còn phải đảm bảo rằng khoản đầu tư mang lại lợi ích bền vững cho nền kinh tế chủ nhà. Thu hút đầu tư và thu được lợi ích tối đa về mặt bền vững phụ thuộc trước hết vào khung chính sách tổng thể mà đầu tư xảy ra. Các nhà hoạch định chính sách cần duy trì môi trường đầu tư lành mạnh, minh bạch và cởi mở, đồng thời áp dụng các chính sách đảm bảo tối đa hóa lợi ích của FDI và giảm thiểu tác hại tiềm tàng đối với kinh tế, xã hội và môi trường của địa phương.
Hơn nữa, các công cụ và biện pháp xúc tiến có mục tiêu để thực hiện hoạt động kinh doanh có trách nhiệm (RBC) cũng quan trọng không kém đối với một khuôn khổ đầu tư bền vững. Điều này đòi hỏi nỗ lực của toàn chính phủ, hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng và tham vấn các bên liên quan có ý nghĩa.
Các cơ quan xúc tiến đầu tư (IPA) cũng cần điều chỉnh chiến lược cho phù hợp với các mục tiêu bền vững của chính phủ và thông qua các chỉ số mục tiêu để lựa chọn các khoản đầu tư ưu tiên và đo lường kết quả bền vững của FDI. Ở ASEAN, trong khi các mục tiêu phát triển bền vững được coi là một trong những yếu tố hàng đầu ảnh hưởng đến các ưu tiên của IPA, chỉ có ba IPA sử dụng các chỉ số liên quan đến bền vững để đo lường tác động của các hoạt động của họ.
Các biện pháp khuyến khích có mục tiêu và được thiết kế tốt cũng có thể là công cụ mạnh mẽ để thu hút FDI với giá trị gia tăng bền vững, đặc biệt là đầu tư có thể góp phần vào quá trình chuyển đổi carbon thấp; nhưng các gói khuyến khích hiện có cho các ngành sử dụng nhiều carbon có thể làm giảm hiệu quả của các chương trình khuyến khích xanh.
Kích hoạt RBC là một phần quan trọng không kém trong phương trình để các chính phủ thúc đẩy đầu tư bền vững bằng cách tạo ra các điều kiện có lợi cho các nhà đầu tư có trách nhiệm, cải thiện sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư chất lượng cao và bảo vệ tài nguyên cho tương lai. Các nhà đầu tư có khuôn khổ quản lý rủi ro RBC mạnh mẽ cũng được trang bị tốt hơn để xác định, đánh giá và giải quyết rủi ro trong chuỗi cung ứng của họ.
Nguồn: Báo Công Thương