Tổng số bài đăng 288.
Hiệp định RCEP được coi là một đặc điểm quan trọng của bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày nay, ảnh hưởng đến dòng chảy thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để phát triển bền vững. Câu hỏi cơ bản là liệu ASEAN có được hưởng lợi từ thành tựu hội nhập này nhiều hơn hoặc ít nhất như các đối tác của mình trong hiệp định này (Úc, Trung Quốc, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc) hay không. Điều này có thể được đo lường bằng những lợi ích có thể có trong thương mại và đầu tư mà hiệp định RCEP có thể đạt được và vai trò trung tâm của ASEAN.
Ta có thể đo lường nó bằng 2 biện pháp. Một, xét đến sự gia tăng có thể có trong thương mại và đầu tư. Hai, tạo giả thiết xác định vị trí trung tâm của ASEAN sẽ được nâng cao hoặc ít nhất là được duy trì trong khu vực RCEP sau hiệp định, và đo lường bằng cách so sánh chuỗi giá trị toàn cầu và khu vực giữa ASEAN và RCEP.
Nếu lợi ích thu được từ hiệp định được phân bổ không đồng đều hoặc không công bằng giữa các quốc gia thành viên của RCEP hoặc không phản ánh quy mô kinh tế của các quốc gia thành viên và nếu ASEAN mất vị trí trung tâm trong các giao dịch kinh tế quốc tế (thương mại và FDI) dọc theo chuỗi giá trị, các đề xuất chính sách sẽ là cần thiết để khắc phục những tình huống này theo hướng phân phối lợi ích công bằng hơn và khôi phục vị trí trung tâm của ASEAN trong khu vực RCEP rộng lớn hơn.
RCEP thúc đẩy mạnh mẽ các liên kết thương mại và đầu tư nội vùng. Mặc dù ở ASEAN, do tỷ trọng thương mại và đầu tư nội vùng thấp hơn, ở mức tối đa là 1/4 đến 1/3 tổng số, nhưng sự phát triển khu vực của Liên minh châu Âu (EU) chứng tỏ rằng khối này hỗ trợ tăng trưởng công nghiệp thông qua chuyển địa điểm sản xuất sang các nước có chi phí thấp hơn và chuyên môn hóa sản xuất trên cơ sở khu vực. Các mô hình như vậy cho đến nay đã chứng tỏ phần lớn, mặc dù không hoàn toàn, khó nắm bắt đối với khu vực ASEAN (ngoại trừ, ví dụ, trường hợp của Thái Lan và Lào), nhưng RCEP có thể cung cấp cho ASEAN cơ hội để hội nhập nhiều hơn vào phát triển nội vùng vì có sự tham gia của nhiều nước phát triển và các nước đang phát triển trong RCEP.
ASEAN là trung tâm của quá trình hội nhập kinh tế Đông Á và Đông Nam Á, cùng với các nền kinh tế lớn trong khu vực. Hội nhập kinh tế đã phát triển vượt ra ngoài phạm vi địa lý của Đông và Đông Nam Á và ảnh hưởng đến quá trình hội nhập khu vực rộng lớn hơn thông qua nhiều cơ chế khác nhau, chẳng hạn như Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương và gần đây là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). RCEP khác với hai cơ chế này ở chỗ ASEAN đóng vai trò trung tâm trong sáng kiến.
RCEP “góp phần nâng cao vai trò trung tâm của ASEAN trong các khuôn khổ khu vực”. Hội nhập ASEAN đã nâng cao năng lực cạnh tranh của khối trong khu vực, tạo ra thương mại và thu hút FDI. Tỷ trọng của ASEAN trong dòng vốn FDI toàn cầu giảm xuống dưới 2% vào năm 2000, nhưng đã tăng lên 6% vào năm 2010. Vẫn còn quá sớm để đánh giá tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN đối với thương mại và dòng vốn FDI, nhưng tỷ trọng của ASEAN trong xuất khẩu hàng hóa toàn cầu và dịch vụ và dòng vốn FDI lần lượt đạt hơn 7% và 9% vào năm 2019, dần dần thể hiện tác động của hội nhập khu vực.
Một số bằng chứng chỉ ra rằng những nỗ lực dành riêng cho thương mại và đầu tư trong quá trình hội nhập khu vực đã khuyến khích các dòng chảy thương mại và FDI trong nội khối ASEAN, ví dụ, bằng cách cấp cho các nhà đầu tư và thương nhân ASEAN đối xử quốc gia và tiếp cận nhiều hơn với các ngành công nghiệp bao gồm cả lĩnh vực dịch vụ.
Ngoài ra, tự do hóa thương mại hơn nữa và các biện pháp tạo thuận lợi đầu tư, tự do hóa và bảo hộ sẽ mở rộng thị trường khu vực và nâng cao nhận thức của cả hai và sức hấp dẫn của ASEAN với tư cách là một tiểu khu vực của thị trường lớn hơn như một địa điểm giao thương và địa điểm đầu tư quốc tế.
Những điều này đã thúc đẩy tiểu vùng ASEAN trở thành một điểm đến đầu tư hấp dẫn, khiến các nhà đầu tư từ quốc tế trong và ngoài hiệp định RCEP áp dụng chiến lược đầu tư trong khu vực và thiết lập mạng lưới hoạt động trong khu vực. Do đó, tỷ trọng thương mại nội khối ASEAN và FDI trong tổng thương mại, FDI vào các nước ASEAN, trọng thương mại ASEAN và FDI trong tổng thương mại, và FDI vào RCEP dự kiến sẽ tăng lên.
Tuy nhiên, kỳ vọng này trái ngược với xu hướng giảm hoặc đảo ngược xu hướng trong những năm qua. Tỷ trọng nội khối trong dòng vốn FDI ASEAN giảm từ 23% năm 2017 xuống 17% năm 2020 với mức thấp 12% vào năm 2019. Do đó, kỳ vọng rất cao đối với RCEP sẽ đổi chiều và đưa các hoạt động nội vùng đi lên.
Sự khác biệt về tỷ trọng của ASEAN và RCEP trên thế giới cũng đang tăng lên, thay vì thu hẹp trong những năm qua. Năm 2019, ASEAN và RCEP chênh lệch nhau khoảng 20 điểm phần trăm đối với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ và 10 điểm phần trăm đối với dòng vốn FDI. Tỷ trọng của ASEAN trong RCEP đang giảm, trong khi tỷ trọng của các quốc gia thành viên không thuộc ASEAN trong RCEP ngày càng tăng. Điều này ngụ ý rằng các nỗ lực trong khu vực của ASEAN đã không được thực hiện về tỷ trọng nội khối và toàn cầu. Việc tham gia RCEP có thể giúp ASEAN cải thiện các nỗ lực trong khu vực và đảo ngược tình trạng này.
Các quốc gia có thu nhập thấp trong ASEAN đã được hưởng lợi từ đầu tư ngày càng tăng từ các quốc gia thành viên ASEAN có nền kinh tế tiên tiến hơn, và từ các quốc gia thành viên RCEP ngoài ASEAN. Điều này cho thấy việc mở rộng và nâng cấp mô hình “ngỗng bay” trong cấu trúc công nghiệp khu vực - quá trình bắt kịp quá trình công nghiệp hóa ở các nền kinh tế đang phát triển và kém phát triển nhất. Thương mại nội vùng và FDI trong RCEP sẽ gia tăng và thúc đẩy sự phát triển của mạng lưới sản xuất quốc tế trong ASEAN và hơn thế nữa. Một số quốc gia có thu nhập thấp trong các ngành công nghiệp như điện tử và dệt may sẽ đạt được những lợi ích liên quan. Xu hướng này đã được quan sát bởi các sáng kiến khác nhau trong ASEAN nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước ASEAN và nâng cao năng lực cạnh tranh tổng thể của ASEAN trong khu vực RCEP và rộng lớn hơn.
Rõ ràng RCEP mang lại nhiều cơ hội cho chuỗi giá trị khu vực (GVC), nhưng đồng thời nhiều vấn đề có thể cản trở tiến trình phát triển liên quan đến GVC, không có lợi cho tất cả các nước một cách công bằng. Ví dụ, Trung Quốc và Nhật Bản có thể đạt được những lợi ích áp đảo so với ASEAN, ít nhất là về phát triển GVC. ASEAN không thể giữ được mức độ trung tâm như cũ khi khu vực mở rộng bao gồm 5 thành viên lớn ngoài ASEAN. Úc và New Zealand không nổi lên đáng kể với tư cách là các quốc gia hưởng lợi. Hàn Quốc được lợi, nhưng ở mức độ thấp hơn Trung Quốc và Nhật Bản.
Các câu hỏi đặt ra liên quan đến các khuyến nghị chính sách có thể tăng cường hơn nữa mối quan hệ tương hỗ giữa hội nhập khu vực RCEP với thương mại và FDI vì sự phát triển bền vững cho tất cả mọi nước. Câu hỏi đầu tiên liên quan đến vai trò của hội nhập khu vực như một yếu tố quyết định thương mại và FDI và khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố này, đặc biệt là khó xác định được điều ngược lại.
Câu hỏi thứ hai liên quan đến tầm quan trọng hàng đầu của các nguyên tắc cơ bản về kinh tế và chính sách. Việc hình thành một khối kinh tế lớn hơn (và có tiềm năng thịnh vượng hơn) có thể không nhất thiết mang lại lợi ích, đặc biệt là về thu hút thương mại và FDI, mặc dù quy mô thị trường là yếu tố quyết định chính, nếu các điều kiện kinh tế phù hợp và khung chính sách thuận lợi không được áp dụng.
Về các nguyên tắc cơ bản kinh tế, một câu hỏi lớn là tự do hóa thương mại và đầu tư giữa các quốc gia thành viên RCEP trực tiếp làm tăng dòng chảy FDI hay sẽ tăng lên (gián tiếp) do cơ hội thị trường mở rộng cho các tập đoàn xuyên quốc gia để phục vụ toàn bộ khu vực.
Ngoài ra, việc hỏi các nỗ lực hội nhập khu vực có thể tạo ra các rào cản bổ sung (ngoài ý muốn) đối với thương mại và FDI ở mức độ nào là phù hợp (ví dụ: gánh nặng hành chính không cần thiết, quan liêu hóa và kiểm soát quá mức mà các nỗ lực hội nhập khu vực có thể vướng phải). Hiệp định RCEP bao gồm các biện pháp tạo thuận lợi thương mại (chương 4) để giảm bớt những rào cản như vậy đối với việc áp dụng sự phù hợp giữa các quốc gia thành viên: ví dụ, áp dụng các cơ chế một cửa và số hóa thông quan hải quan.
Xét về khuôn khổ chính sách tạo điều kiện, một câu hỏi quan trọng là liệu nỗ lực hội nhập khu vực của RCEP có phù hợp và khả thi hay không, và như một hệ quả tất yếu, bao gồm đầy đủ tự do hóa thương mại và đầu tư thiết yếu và hài hòa chính sách để phát triển bền vững. Điều này đòi hỏi sự nhất quán và phối hợp giữa các chính sách thương mại và đầu tư. Những nỗ lực hội nhập khu vực nhân lên những thách thức trong vấn đề này.
Điều này không chỉ giới hạn ở thực tế là các chính sách trong nước cần phải nhất quán trong toàn bộ nhóm khu vực được đề cập và các lĩnh vực chính sách khác, chẳng hạn như cạnh tranh và môi trường. Nó cũng liên quan đến khía cạnh chính sách của sự cân bằng mà một quốc gia mong muốn đạt được giữa hài hòa chính sách khu vực và quyền điều chỉnh của chính họ vì lợi ích công cộng.
Nguồn: Báo Công Thương