Underline menu menu close

Hiệu quả thực thi Hiệp định RCEP từ góc độ hải quan

02:34 - 26/09/2022

Với mục tiêu hội nhập sâu hơn các nền kinh tế Đông Nam Á và Đông Bắc Á, Hiệp định RCEP đặt ra các yêu cầu cao đối với hải quan về thủ tục, quy trình và hiệu quả hoạt động. Nhìn lại lịch sử khởi đầu của RCEP, năm 2012, ASEAN đã mời Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand xây dựng một hiệp định thương mại tự do đa phương. Hiệp định RCEP được ký kết vào tháng 11/2020 và hiện đã có hiệu lực thực thi, tạo ra khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới tính theo tổng sản phẩm quốc nội, chiếm 30% dân số thế giới và chiếm 25% thương mại hàng hóa và dịch vụ toàn cầu.

 

Xét góc độ hải quan, hiệp định RCEP có một số đặc điểm cần lưu ý như sau:

 

1. Quy định thời hạn tối đa cho việc giải phóng một số chủng loại hàng hóa:

- Thiết lập thời hạn giải phóng hàng hóa tại Điều 4.11: Giải phóng hàng hóa và 4.15: Chuyển hàng nhanh. Một Phụ lục cũng được thêm vào Hiệp định, đặt ra cho một số quốc gia một khoảng thời gian cụ thể để thực hiện một số điều khoản của Hiệp định, kể cả những điều khoản theo Điều 4.11 và 4.15.

 

- Khuyến khích các Thành viên “đo lường thời gian cần thiết để cơ quan Hải quan của mình giải phóng hàng hóa một cách định kỳ và theo cách nhất quán, và công bố những phát hiện đó, bằng cách sử dụng các công cụ như Hướng dẫn Đo lường Thời gian Cần thiết để Giải phóng của Hàng hóa do Tổ chức Hải quan Thế giới ban hành nhằm: (a) đánh giá các biện pháp tạo thuận lợi thương mại của Tổ chức Hải quan Thế giới; và (b) xem xét các cơ hội cải thiện hơn nữa thời gian cần thiết để giải phóng hàng hóa”.

 

2. Quy tắc xuất xứ và tích lũy được hài hòa hóa:

- Thừa nhận bản chất khu vực, các quy tắc xuất xứ của Hiệp định cung cấp một phương tiện cho phép các nguyên liệu được cộng gộp giữa các Bên RCEP trong quá trình sản xuất (Điều 3.4). Điều khoản cộng gộp cho phép các nhà sản xuất tìm nguồn nguyên liệu và sử dụng các quy trình sản xuất từ các bên của RCEP và sau đó đưa các nguyên liệu và quá trình này vào quá trình xác định cuối cùng xem hàng hóa có xuất xứ hay không.

 

- Khi RCEP được thực thi, khả năng tích lũy nguyên liệu bị hạn chế đối với hàng hóa có xuất xứ, nhưng Hiệp định quy định rằng các bên RCEP có thể tiến hành đánh giá trong tương lai để xem xét việc mở rộng quy tắc cộng gộp, cho phép các nguyên liệu đầu vào không đáp ứng tiêu chí xuất xứ được tính là một phần của hàm lượng giá trị đủ điều kiện cho hàng hóa được sản xuất và trao đổi giữa tất cả các bên của RCEP.

 

3. Yêu cầu đối với thủ tục hải quan:

Các yêu cầu được liệt kê theo Chương 4 và cao hơn so với các yêu cầu có trong các hiệp định thương mại tự do khác. Ví dụ, các bên được yêu cầu: (i) đưa ra các phán quyết trước về phân loại, quy tắc xuất xứ và trị giá hải quan trong một thời hạn cụ thể được quy định trong Hiệp định; (ii) không vượt quá khoảng thời gian quy định cho việc thông quan hàng hóa; (iii) cung cấp cho các nhà khai thác đáp ứng các tiêu chí cụ thể (các nhà khai thác được ủy quyền) các biện pháp tạo thuận lợi thương mại; (iv) áp dụng cách tiếp cận quản lý rủi ro đối với kiểm soát hải quan và kiểm tra sau thông quan. Thừa nhận rằng các Bên có mức độ sẵn sàng khác nhau để thực hiện một số cam kết, đặc biệt là những cam kết vượt ra ngoài TFA của WTO, Chương này cho phép các nước này thực hiện theo từng giai đoạn. Chi tiết về giai đoạn thực hiện các cam kết được cung cấp trong Phụ lục của Chương.

 

Việc thực hiện nghiên cứu về thời gian thông quan sẽ không chỉ cho phép cơ quan Hải quan đo lường các cam kết của họ khi đến thời điểm thông quan mà còn để thực hiện đánh giá toàn diện về hiệu lực và hiệu quả của các thủ tục biên giới, bao gồm cả các thủ tục của các cơ quan quản lý và biên giới khác. Nó cũng sẽ cho phép các cơ quan hành chính xác định những khoảng trống và nhu cầu, và nếu TRS được thực hiện thường xuyên, để giám sát và đo lường kết quả của việc thực hiện các biện pháp RCEP cụ thể cũng như các chính sách và chương trình liên quan.

 

TRS có thể được tiến hành tại các điểm nhập cảnh cụ thể và phương pháp luận được điều chỉnh để tập trung vào các hàng hóa hoặc thủ tục cụ thể, chẳng hạn như chuyển phát nhanh và hàng hóa dễ hư hỏng. Các bên ký kết RCEP có thể khám phá khả năng điều phối TRS ở cấp khu vực để có cái nhìn tổng quan về thời gian trung bình cần thiết để vận chuyển hàng hóa giữa các Bên và xác định nhu cầu về mặt cải cách và xây dựng năng lực.

 

Thỏa thuận được đàm phán dựa trên ấn bản năm 2012 của HS. Với một phiên bản HS mới có hiệu lực vào ngày 1/1/2022, các quốc gia sẽ thực hiện ấn bản HS 2022 kể từ năm sau, hàng hóa sẽ phải được phân loại hai lần - sử dụng ấn bản HS 2022 cho mục đích phân loại và ấn bản 2012 để xác định xuất xứ - nếu các quy tắc xuất xứ trong RCEP không được cập nhật. Các quy tắc xuất xứ của RCEP có các điều khoản liên quan đến các yêu cầu vận chuyển.

 

Thỏa thuận đưa ra các yêu cầu về bằng chứng để xác minh rằng không có sự thao túng hoặc thay đổi các tài liệu hiện có, chẳng hạn như vận đơn hoặc hóa đơn, đã diễn ra. Nhưng nó không giới hạn trong các tài liệu như vậy, đề cập đến “chứng chỉ không thao túng hoặc các tài liệu hỗ trợ có liên quan khác, khi cơ quan hải quan có thể yêu cầu”. Trên thực tế, hải quan sẽ cần cung cấp một số giải thích rõ ràng và hạn chế các yêu cầu về chứng cứ đối với các tài liệu hiện có.

 

Nguồn: Báo Công Thương